Giống hoa loa kèn Tứ Quý có nguồn gốc từ Hà Lan, được Viện Nghiên cứu Rau quả tuyển chọn từ tập đoàn giống nhập nội năm 2005 và được công nhận giống sản xuất thử năm 2009 theo Quyết định số 161/QĐ-TT-CLT ngày 04/6/2009.

Giống có một số đặc điểm chính như: chiều cao cây 95,3 - 125,4cm, số nụ hoa/cây 3,2-3,8 nụ hoa, chiều dài nụ 14,2-16,5cm, đường kính nụ 4,0-4,5cm, đường kính hoa 9,7-10,7cm, hướng hoa đứng hoặc xiên, hoa có màu trắng, mùi thơm, thời gian sinh trưởng 95-102 ngày.

- Đặc biệt giống kèn Tứ Quý có khả năng chịu nhiệt nên có thể trồng nhiều vụ trong năm và cây sau khi thu hoa có thể thu lại củ, bảo quản và trồng được trong 1-2 vụ tiếp theo mà vẫn đảm bảo được chất lượng cành hoa.

- Hiện nay, giống hoa loa kèn Tứ Quý đang được trồng thành công ở nhiều tỉnh miền Bắc nước ta như: Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng Ninh, Sơn La, Lai Châu...

Một số lưu ý khi trồng hoa loa kèn Tứ Quý:

1. Thời vụ

- Trong điều kiện miền Bắc Việt Nam, có thể trồng loa kèn Tứ quý nhiều vụ trong năm nhưng tập trung vào 3 thời vụ chính: 

+ Vụ Xuân hè: trồng tháng 01-02, trên chân đất màu sau khi thu hoạch cây vụ đông như: đậu tương, ngô, khoai tây....Vụ này thu hoa vào tháng 04-05

+ Vụ Thu đông: trồng tháng 08-09, trên chân đất lúa sau khi thu hoạch lúa mùa sớm.Vụ này thu hoa vào tháng 10-11

+ Vụ Đông xuân: trồng đầu tháng 10, trên chân chuyên màu hoặc đất lúa sau khi thu hoạch lúa mùa. Vụ này thu hoa vào tháng 02-03

Tuy nhiên, trồng hoa loa kèn Tứ Quý vào vụ Xuân hè (thu hoa sau vụ loa kèn ngang) và vụ Thu đông (thu hoa vào 20/10 và 20/11) là cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với trồng vụ Đông xuân.

2. Đất trồng

- Loa kèn thích hợp với đất có thành phần cơ giới nhẹ, đất xốp, nhiều mùn, thoát nước nhanh nhưng giữ ẩm tốt, pH từ 6-7.

- Loại đất thích hợp nhất đó là đất phù sa và đất thịt nhẹ giàu chất hữu cơ, tốt nhất trồng trên chân đất được luân canh với lúa nước hoặc cây màu như đậu tương, lạc.

- Không nên trồng loa kèn trên đất cát hoặc đất cát pha hoặc trên chân đất mà trước đó có trồng cây họ hành tỏi, chuyên canh hoa hay rau.

- Đất được cày bừa kỹ, sau đó lên lên luống: rộng 1,0-1,2m, cao 25-30cm, rãnh luống rộng 30-40cm.

- Bón lót phân: trộn đều 1,2-1,5 tấn phân chuồng hoai mục, 40-50kg supe lân và 10-20kg vôi bột (nếu đất chua) cho 1 sào Bắc Bộ (360m2) trước khi trồng 15-20 ngày.

3. Chuẩn bị củ giống        

- Chọn củ: Kích cỡ củ loa kèn Tứ quý trồng để thu hoạch hoa thương phẩm tốt nhất có chu vi từ 12-14cm, củ càng to số lượng hoa/cành càng nhiều. Lưu ý là: chọn củ không bị nấm bệnh, trầy xước và đã qua xử lý lạnh (2-3 tháng).

- Phân loại củ: Chọn những củ giống có kích thước đồng đều để trồng cùng 1 luống vì những củ có kích thước tương đương nhau sẽ cho thu hoạch hoa cùng thời điểm nên việc phân loại này sẽ giúp cho quá trình chăm sóc cây cũng như thu hoạch hoa sau này được tiến hành thuận lợi hơn.

- Xử lý củ: Dùng Daconil 75WP với liều lượng 10g/8 lít nước hoặc Ridomil Gold 68WP với liều lượng 15g/10lít nước, ngâm củ từ 10-15 phút, sau đó vớt ra để ráo rồi mới trồng.

4. Kỹ thuật trồng

- Rạch rãnh ngang trên mặt luống và sâu 5-10cm, sau đó đặt củ, lấp đất lên củ từ 5-8cm tính từ mặt củ.

- Khoảng cách trồng thích hợp nhất: 15x20cm, mật độ 7.000–8.000 củ/sào Bắc Bộ (360m2).  Trong điều kiện thâm canh tốt hơn thì trồng với khoảng cách: 12x17cm, mật độ 10.000 củ/sàoBB (360m2).

- Lưu ý: Nếu trồng mật độ quá thưa quá sẽ gây lãng phí đất, hoặc trồng mật độ quá dày thì sâu bệnh nhiều, cây thiếu ánh sáng gầy yếu, lướt cây.

- Trồng xong phải tưới nước ngay, tùy thời vụ mà có thể tưới rãnh hoặc tưới bằng vòi hoa sen nhưng nếu ruộng trồng có điều kiện thủy lợi tốt thì nên tưới rãnh để tránh làm xô củ và gây gí bề mặt đất.

5. Kỹ thuật chăm sóc

5.1.Tưới nước

- Trong thời gian 3 tuần đầu sau trồng, cần tưới nước thường xuyên để củ không bị khô và rễ củ hút được nước, sau đó giảm dần lượng tưới để tránh thối củ.

- Nếu tưới nước bằng vòi hoa sen thì ngày tưới từ 1-2 lần, tưới vào buổi sáng  hoặc chiều mát. Còn tưới rãnh thì 7-8 ngày/lần, tùy thuộc vào ẩm độ đất. Kinh nghiệm kiểm tra độ ẩm đất là dùng tay nắm đất, nếu bóp mạnh mà không thấy nước rỉ ra ngoài kẽ tay là được.

5.2. Bón phân

- Tổng lượng phân bón cho 1 sào BB (360m2) trồng hoa loa kèn Tứ quý là 34-40kg hỗn hợp phân: NPK đầu trâu 13-13-13 + 3,4-4kg đạm urê

- Cách bón:

+ Giai đoạn sau trồng 3 tuần đầu không cần bón phân. Tuần thứ 4 tiến hành bón thúc, chia làm 4 lần để bón. Cụ thể:

Lần 1: sau trồng 20 ngày: 7-8kg NPK + 1,0-1,2kg Ure

Lần 2: sau trồng 35 ngày: 10-12kg NPK + 1,0-1,2kg Ure

Lần 3: sau trồng 50 ngày: 10-12kg NPK + 0,8-1,0kg Ure

Lần 4: sau trồng 65-70 ngày: 7-8 kg NPK + 0,6kg Ure

+ Trộn đều hỗn hợp phân và rắc đều trên mặt luống. Bón xong tưới nước ngay để phân tan và ngấm vào đất.

- Ngoài ra, có thể sử dụng thêm nước phân hữu cơ đã được ngâm ủ hoai mục để tưới bổ sung cho cây: như ngâm đậu tương, đầu cá...

- Chú ý: Trong quá trình sinh trưởng phát triển của cây, nếu thấy cây có biểu hiện vàng lá ngọn,... do thiếu các nguyên tố vi lượng thì phải phun bổ sung bằng các loại phân bón lá có chứa các nguyên tố vi lượng như: các loại phân bón lá hiệu Đầu Trâu, Komix, Rong biển, phân bón bổ sung sắt...

5.3. Làm cỏ, căng lưới đỡ cây

- Thường xuyên làm cỏ, xới xáo và vun gốc cho cây để chống đổ.

- Nên làm cỏ thường xuyên cho cây loa kèn đến khi thu hoạch củ xong. Không căn cứ là làm mấy lần trong 1 vụ. Tuy nhiên, có thể ngưng làm cỏ khi cây đang ở giai đoạn thu hoạch hoa. Sau khi thu hoa xong thì nên làm cỏ để thuận tiện cho thu hoạch củ sau này.

- Dùng lưới ô vuông kích thước 12x12cm căng sẵn trên mặt luống, sau đó nâng dần lên theo chiều cao của cây hoặc khi cây cao khoảng 30-40cm mới tiến hành làm giàn đỡ cây.

Căng lưới đỡ cây cho hoa loa kèn Tứ Quý

6. Phòng trừ sâu bệnh

Cây loa kèn thường bị một số loại sâu, bệnh hại chính như: rệp, sâu xám, ốc sên, bệnh phấn trắng, đốm lá, thối thân...Nguyên tắc chung để phòng trừ các loại sâu, bệnh trên là cần áp dụng biện pháp quản lý, phòng trừ sâu bệnh tổng hợp (làm đất cao, thoát nước tốt, chọn củ giống sạch bệnh, bón phân hợp lý, phun thuốc phòng bệnh theo nguyên tắc 4 đúng...)

6.1. Sâu hại

- Rệp: Chủ yếu là rệp xanh và rệp đen

+ Triệu chứng: Rệp hút một lượng lớn dinh dưỡng của cây, làm cây còi cọc, ngọn quăn queo, nụ bị thui, hoa không nở được hoặc dị dạng... Trên dịch mật do rệp tiết ra hình thành các đám muội đen do nấm phát triển trên đó. Tình trạng này ảnh hưởng xấu đến quang hợp của cây. Rệp thường gây hại nặng ở vụ Xuân hè và Đông xuân, chủ yếu ở giai đoạn cây chuẩn bị ra nụ-thu hoạch hoa.

+ Cách phòng trừ: Vệ sinh đồng ruộng sạch sẽ, làm cỏ thường xuyên, bón phân cân đối. Khi mật độ rệp cao tiến hành phun thuốc hóa học. Sử dụng Suprathion 40EC, Supracide 40EC liều lượng 20-25ml/10 lít nước, Sherpa 25EC (20ml/16 lít nước), Actara 25WG (1g/8 lít nước). Phun 2-3 bình/sào BB.

- Sâu xám

+ Triệu chứng: Sâu tuổi nhỏ ăn phần thịt lá để lại lớp biểu bì phía trên. Sâu tuổi lớn ăn khuyết lá non, ngọn non và gặm xung quanh gốc cây. Ban ngày sâu lấp dưới lá hoặc ở dưới đất chỗ gần gốc cây. Sâu gây hại ở vụ Thu đông và Đông xuân.

+ Cách phòng trừ: Vệ sinh đồng ruộng sạch sẽ. Trồng cây trên chân đất luân canh với lúa. Trừ sâu bằng cách dùng thuốc Basudin 10G rắc vào đất liều lượng 1,0kg/sào BB khi làm đất hoặc thuốc Lannate 40SP liều lượng 25-30g/10lít phun vào lúc sáng sớm hoặc buổi tối. Phun 1-2 bình/sào BB.

- Ốc sên

+ Triệu chứng: Ốc sên ăn khuyết lá non, cắn hết phần mầm củ làm cây không còn khả năng sinh trưởng. Ốc sên thường gây hại ở vụ Đông xuân và thường gây hại vào lúc sáng sớm.

+ Cách phòng trừ: Vệ sinh đồng ruộng sạch sẽ, phát quang bờ bụi. Dùng tay bắt va rắc vôi bột xung quanh ruộng để ốc sên không bò vào.

6.2. Bệnh hại:

Gồm bệnh truyền nhiễm (do các loại nấm gây ra như bệnh phấn trắng, bệnh đốm lá, thối thân) và bệnh sinh lý (bệnh vàng lá ngọn do thiếu sắt)

- Bệnh phấn trắng

+ Triệu chứng: Vết bệnh dạng bột phấn màu trắng xám, sau lan rộng làm lá cháy khô rồi rụng, bệnh gây hại chủ yếu trên lá cây. Bệnh thường gây hại ở vụ Đông xuân và Xuân hè. Bệnh lây lan nhanh khi trời có nhiều sương, độ ẩm không khí cao. Trời hanh khô là điều kiện thuận lợi cho bào tử nấm phát tán trong không khí

+ Cách phòng trừ: Vệ sinh đồng ruộng sạch sẽ, vặt bỏ lá bị bệnh, trồng cây với mật độ hợp lý. Khi bệnh nặng dùng thuốc để trừ như: Anvil 5SC (liều lượng 10-15ml/10 lít nước); Score 250EC (liều lượng 5-10ml/10 lít nước); Fuguran-OH 50WP, Ridomil Gold 68WP (15-20g/8 lít nước). Phun 2-3 bình/sào BB.

- Bệnh đốm lá

+ Triệu chứng: Vết bệnh thường xuất hiện ở lá và nụ hoa, màu xám nâu, hình tròn hoặc bất định, xung quanh vết bệnh có quầng vàng rộng, sau đó vết bệnh lan vào trong làm lá và nụ thối đen rồi rụng. Bệnh thường gây hại vào vụ Xuân hè, khi có mưa nhiều, độ ẩm không khí cao.

+ Cách phòng trừ: Vặt bỏ lá bị bệnh, trồng cây với mật độ hợp lý. Phun thuốc hóa học để phòng trừ bệnh như: Score 250EC (liều lượng 10-15ml/10 lít nước); Daconil 75WP (20-25g/10 lít nước), Sancozeb 80WP (25-30g/10 lít nước). Phun 2-3 bình/sào BB.

- Bệnh thối thân

+ Triệu chứng: Khi bệnh gây hại cây loa kèn bị thối ở ngang thân làm cây bị đổ gục và chết. Bệnh chủ yếu phát sinh và gây hại trong mùa mưa nhất là ở vụ Thu đông và Xuân hè.

+ Cách phòng trừ: Luân canh cây trồng, nhổ bỏ cây bệnh, hạn chế bón đạm. Nếu trồng hoa loa kèn vào mùa mưa thì sau khi cây mọc thường xuyên phải phun phòng bằng thuốc Sancozeb 80WP hoặc Aliette 800WG liều lượng 25-30g/10 lít nước. Phun 2-3 bình/sào BB.

- Bệnh vàng lá

+ Triệu trứng: Phần thịt lá chuyển màu xanh vàng trong khi gân lá có màu xanh bình thường. Thiếu càng nhiều sắt, phần thịt lá sẽ chuyển sang màu vàng. Triệu chứng thiếu Fe thường xuất hiện ở các lá non tập trung ở phần đỉnh ngọn. Bệnh này thường xuất hiện ở trên đất kiềm (pH>7), ở những vị trí dễ bị ngập úng và nhiệt độ đất quá thấp.

+ Cách phòng trừ: Bón bổ sung bằng các dung dịch phức hợp có chứa Fe (sắt chelata) như Fe-EDDHA và DTPA-Fe. Có thể bón vào gốc 10g/m2 hoặc có thể phun lên lá cây.

7. Thu hoạch và bảo quản hoa cắt

7.1. Thu hoạch hoa cắt

- Thời điểm thu hoạch hoa: Vào buổi sáng hoặc chiều mát, lúc nụ hoa phía dưới cùng hơi phình to và chuyển từ màu xanh sang màu trắng sữa.

- Phương pháp thu hoạch hoa: Dùng dao hoặc kéo sắc để cắt cây, cắt vát, khi cắt để lại phần gốc 15-20 cm có cả lá để cây tiếp tục quang hợp nuôi củ. Sau khi cắt cành xong cần cắm ngay vào nước và bảo quản nơi râm mát có nhiệt độ thấp để đảm bảo chất lượng hoa sau thu hoạch.

-  Phân loại và bao gói hoa: Căn cứ vào độ số nụ hoa/cành mà phân thành 3 loại: Loại có 1 nụ/cành, loại 2 nụ/cành và loại có từ 3 nụ trở lên/cành. Trong quá trình phân loại thì tiến hành loại bỏ đồng thời những cành bị sâu, bệnh hại, cành có nụ bị dập nát, tỉa bỏ lá vàng. Sau đó xếp các cành hoa bằng đầu và dùng lạt hoặc dây nilon buộc lại. Lúc đầu bó thành các bó nhỏ với số lượng cành/bó là 10 cành, rồi bó 5 bó nhỏ thành một bó lớn 50 cành. Dùng giấy báo hoặc túi nilon chuyên dụng để bao bó hoa lại. Dùng tay tuốt bỏ lá sát gốc khoảng 10cm rồi dùng dao sắc cắt bằng gốc và tiếp tục ngâm trong nước.

- Vận chuyển hoa đi tiêu thụ: Xếp các bó hoa vào thùng carton (có đục lỗ thông khí) để vận chuyển. Nếu đi xa nên dùng xe lạnh, để nhiệt độ thùng lạnh khoảng 8-10oC.

- Bảo quản hoa cắt: Sau khi bao gói hoa xong, nếu không bán ngay ta có thể bảo quản hoa bằng ngâm trong hóa chất hoặc bảo quản trong kho lạnh.

+ Dùng hóa chất: Cắm ngập các bó hoa từ 5-10cm vào các thùng, xô nhựa có pha hóa chất như: đường Sacaroza nồng độ cao (5-10%) + dung dịch Nitrac Bạc (AgNO3) 100mg/lít hoặc các loại chất dưỡng hoa có sẵn trên thị trường như T.O.G (dinh dưỡng bảo quản hoa cắt cành theo công nghệ Israel)…

+ Dùng kho lạnh: Cắm các bó hoa vào thùng nhựa có chứa nước rồi đưa vào kho lạnh (mức nước ở thùng nhựa 4-5cm), sau đó điều chỉnh nhiệt độ kho lạnh 4-60C và ẩm độ 85-90%. Với điều kiện trên sẽ bảo quản được hoa loa kèn khoảng 20-25 ngày.

7.2. Thu hoạch và bảo quản củ giống

- Thời điểm thu hoạch củ

Sau thu hoa khoảng 1 tháng, khi củ mới đã đạt kích thước nhất định, phần vảy bên ngoài củ có màu hơi vàng. Không nên thu củ quá muộn củ dễ bị thối, cũng không nên đào củ quá non, củ tích lũy chất khô chưa đầy đủ sẽ không tốt.

- Thu củ và xử lý lạnh

+ Thu củ: Dùng dầm hoặc cuốc để đào củ. Chú ý khi đào không được làm xây xát củ. Củ đào lên để chỗ mát, rũ sạch đất sau đó rửa sạch củ rồi hong cho ráo nước. Sau đó tiến hành phân loại củ thành 2 loại: củ thương phẩm (chu vi ≥10cm) và củ nhân giống (<10cm).

+ Xử lý lạnh: Dùng Daconil 75WP pha ở nồng độ 10g/8-10 lít nước ngâm khoảng 10-15 phút. Sau đó vớt ra hong khô rồi đóng gói. Dùng khay nhựa đen (kích thước 40x60x20cm), lót 1 lớp nilon có đục lỗ dưới khay, sau đó rải một lớp mùn cưa hoặc xơ dừa dày 3cm vào. Cho củ vào đến 1/2 khay, rồi rải tiếp 1 lớp xơ dừa (mùn cưa) phủ kín củ và đổ tiếp củ vào cho đến gần mặt khay. Cuối cùng rải một lớp xơ dừa lên và đậy nilon lại. Cho các khay vào kho lạnh xử lý ở nhiệt độ 4-5oC, ẩm độ 65-70% trong 2,5-3 tháng.

Bài và ảnh: Thanh Tuyền